Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cử hành Thánh Lễ Nửa Đêm tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Thành phố Vatican, 2008.
(Ảnh của Grzegorz GalazkaArchivio Grzegorz GalazkaMondadori qua Getty Images)
(Ảnh của Grzegorz GalazkaArchivio Grzegorz GalazkaMondadori qua Getty Images)
VỊ GIÁO HOÀNG CỦA LÝ TRÍ
DI SẢN TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI SẼ TỒN TẠI LÂU DÀI
Samuel Gregg
WHĐ (27.4.2023) – Đức Bênêđictô XVI để lại sau ngài một công trình trí tuệ to lớn đã nuôi dưỡng các thế hệ Kitô hữu và đã tạo điều kiện cho những trao đổi hiệu quả với những người bên ngoài Giáo hội. Trong phần tổng hợp các công trình này của Joseph Ratzinger, Samuel Gregg nhắc lại tầm quan trọng của lý trí, của sự hiểu biết đúng đắn về thời kỳ Khai sáng, và của sự ăn khớp giữa đức tin và chân lý.
Trong tất cả những vị đã ngồi trên Ngai Tòa Phêrô, chắc chắn Đức Bênêđictô XVI là một trong những người khổng lồ về trí thức. Ngay cả trước khi trở thành giáo hoàng vào năm 2005, ngài đã nổi tiếng là một nhà tư tưởng. Cho dù chủ đề là tương lai của châu Âu hay mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế, Joseph Ratzinger chắc chắn đã viết một điều gì đó sâu sắc về các chủ đề này.
Học thuật này không giới hạn trong học viện. Đã lâu rồi tôi không đếm được số người thuộc mọi tầng lớp xã hội mà tôi gặp đã nói với tôi rằng sau khi đọc một hoặc nhiều hơn trong số 86 cuốn sách và 471 bài báo của ngài, họ đã hiểu rõ hơn về Kitô giáo, một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Chúa Giêsu Nadarét. Trong nhiều trường hợp, kết quả cuối cùng là trở lại đạo Công giáo.
Chân lý và những ý tưởng
Đối với Đức Bênêđictô XVI, Kitô giáo không phải là một tập hợp các ý tưởng. Rốt cuộc, Kitô giáo nói về sự thật về cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và cách những sự kiện đó mặc khải tình yêu sâu xa của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Tuy nhiên, các ý tưởng rất quan trọng đối với Ratzinger, vì chính bằng câu chữ mà sự thật này được truyền đạt và giải thích.
Đức Bênêđictô XVI cũng đã chứng kiến trong suốt cuộc đời mình sức mạnh của ý tưởng, dù hoàn cảnh nào đi nữa. Lớn lên dưới chế độ độc tài Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa ở Đức, ngài đã tận mắt chứng kiến mức độ nguy hại có thể đến từ những ý tưởng sai lầm nghiêm trọng. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã chứng kiến cách các ý tưởng của chủ nghĩa Mác đã hợp pháp hóa các chế độ chuyên chế Cộng sản trên khắp Trung và Đông Âu và cuối cùng dẫn đến sự điên rồ quét qua giới học thuật và văn hóa phương Tây vào năm 1968, mà chúng ta vẫn đang phải trả giá.
Những sự kiện này và những sự kiện khác liên quan đến chúng đã khiến Đức Bênêđictô XVI phải suy nghĩ rất lâu và kỹ lưỡng về những sai lầm trong thế giới tư tưởng. Cách giải thích thì nhiều, nhưng tác phẩm của ngài bao giờ cũng quay trở lại cuộc tranh luận về bản chất và mục đích của lý trí.
Trong điều kiện của thời hiện đại, lý trí luôn gắn liền với các thời kỳ Khai sáng khác nhau. Nhiều người ngạc nhiên khi tôi nói với họ rằng Đức Bênêđictô XVI không phải là người chống Khai sáng. Một trong những sai lầm lớn nhất khi phân tích Ratzinger là coi ngài là một kẻ chống Khai sáng. Chỉ cần đọc các bài viết của ngài một giờ hoặc lâu hơn là đủ để xua tan chuyện hoang đường này.
Ngược lại, Đức Bênêđictô XVI đã không ngần ngại công nhận những thành tựu của các nhà tư tưởng khác nhau của phong trào Khai sáng. Các bài viết của ngài phản ánh sự đánh giá sâu sắc về các mức độ khác biệt của các phong trào Khai sáng khác nhau. Trong một số trường hợp, Đức Bênêđictô XVI đã cẩn thận phân biệt các phong trào Khai sáng gắn liền với, ví dụ như Cách mạng Pháp, khác với những phong trào đặc trưng cho kinh nghiệm Khai sáng của người Anh-Mỹ. Ngài tin rằng những phong trào Khai sáng của người Anh-Mỹ không có những xung năng chống Kitô giáo như phong trào Khai sáng gắn liền với Cách mạng Pháp và đánh dấu sự đoạn tuyệt ít cực đoan hơn nhiều với các truyền thống phương Tây cũ hơn. Về vấn đề này, Ratzinger viết rằng tư tưởng của ngài rất gần với tư tưởng của nhà tư tưởng tự do người Pháp thế kỷ 19, Alexis de Tocqueville, người mà ngài gọi là “nhà tư tưởng chính trị vĩ đại”.
Vấn nạn về tính hiện đại
Đức Bênêđíctô XVI nghĩ rằng vấn nạn về tính hiện đại là nó có nguy cơ đóng cửa lý trí đối với sự hiểu biết về những điều vượt quá kinh nghiệm và đo lường được. Nói cách khác, bất chấp tất cả những thành tựu của nó trong khoa học tự nhiên và xã hội, thế giới hiện đại vẫn bị tấn công bởi một quan niệm quá hạn hẹp về lý trí.
Các ngành khoa học hiện đại, như Đức Bênêđictô XVI thường chỉ ra, đã mang hình thức hiện đại của chúng vào thời Trung Cổ, đã giúp nhân loại thực hiện quyền làm chủ vô song đối với thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, tính hợp lý theo kinh nghiệm đã không thể và hiện nay vẫn không thể xác định công nghệ được sử dụng như thế nào mới là tốt hay xấu. Điều này đòi hỏi những hình thức lập luận khác: những hình thức cho phép chúng ta hiểu điều gì là tốt lành, và cách làm thế nào để chúng ta có thể tự do lựa chọn điều tốt lành chứ không bao giờ chọn điều ác.
Theo Đức Bênêđictô XVI, việc mất đi những chân trời vĩ đại của lý trí đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho các lãnh vực tôn giáo và thế tục. Ngài khẳng định, trong thế giới tôn giáo, sự suy giảm của lý trí có xu hướng giản lược tình yêu Kitô giáo thành chủ nghĩa nhân đạo đa cảm đơn thuần.
Trong Giáo hội Công giáo thời hậu Vatican II, điều này dẫn đến việc nhiều nhà thần học và hơn một linh mục, hơn một giám mục và hơn một hồng y đã giảm trừ Chúa Kitô thành một loại gấu bông trị liệu từ trời cao: thứ gấu bông này không bao giờ sửa sai chúng ta và chỉ tán thành chúng ta, bất kể hành động của chúng ta ngu ngốc hay xấu xa như thế nào.
Thách thức của lý trí
Sau một thời gian, không ai có thể coi một vị thần như vậy là quan trọng nữa. Quan điểm tương tự cũng dẫn đến việc đạo đức bị giảm xuống thành việc nói về cảm xúc và kinh nghiệm sống hoặc, thay vào đó, cố gắng xác định tính đạo đức của một hành vi bằng cách đo lường tất cả các hậu quả tốt và xấu của hành động đó – như thể những điều này bằng cách nào đó có thể định lượng được hoặc thậm chí hoàn toàn có thể nhận biết trước được.
Về một vài phương diện nào đó, kết quả của việc giảm sút lý trí thậm chí còn gây ra nhiều tai hại hơn cho toàn xã hội. Ví dụ, nó tạo ra những học giả đề cao tầm quan trọng của tính hợp lý khoa học, nhưng không thể nhận ra rằng các khoa học tự nhiên dựa trên những tiên đề có bản chất phi khoa học - bao gồm cả nguyên lý logic phi mâu thuẫn và sự thật hiển nhiên là sai lầm thì cần phải tránh, nhưng sự thật thì cần phải được biết đến.
Như Đức Bênêđictô XVI muốn nhấn mạnh, các xã hội đa nguyên tự do, vốn thiếu một quan niệm vững chắc về lý trí triết học, thiếu phương tiện để xác định những chân lý phổ quát vượt quá những ý thích thay đổi thất thường kiểu như “xinh xắn dễ thương”. Ngay cả ý tưởng rằng có những quyền tự nhiên phổ quát (một khái niệm có từ thời Tôma Aquinô) mà mọi người có thể nhận biết nhờ lý trí cũng trở nên không thể đứng vững nếu không có cơ sở như vậy trong chính luật tự nhiên. Do đó, các vấn nạn về sự thiện và điều ác bị giản lược vào ý chí của bất cứ ai có nhiều quyền lực hơn, cho dù là do người ấy sẵn sàng sử dụng nắm đấm của mình hay do khả năng của người ấy tập hợp được đa số phiếu bầu của những người dễ sai khiến vào thời điểm bầu cử. Trong những hoàn cảnh như vậy, các thể chế như nhà nước pháp quyền và các giới hạn hiến định đối với quyền lực nhà nước có vẻ như mê hoặc và rốt cuộc là đáng bị vất đi.
Phần lớn tư tưởng của Đức Bênêđíctô XVI - dù là với tư cách giáo hoàng, bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của Đức Gioan Phaolô II, hay nhà thần học - đã được dành để suy tư về những vấn đề này. Chẳng hạn, tư tưởng ấy đã giúp làm nên một trong những thông điệp quan trọng nhất của giáo hoàng trong thế kỷ 20, Veritatis Splendor – Chân Lý Rạng Ngời - của Đức Gioan Phaolô II. Trong số những điều khác, thông điệp này tái khẳng định một cách mạnh mẽ giáo huấn cổ xưa của Giáo hội Công giáo rằng có một số hành vi (giết người, nói dối, trộm cắp, v.v.) mà chính lý trí cho chúng ta biết không bao giờ được phép chọn chúng, bất kể hoàn cảnh hay ý định của bất cứ ai chọn chúng. Cũng có một sự nhấn mạnh nhiều hơn, trong đó nổi tiếng nhất là bài phát biểu năm 2005 của Ratzinger về “sự độc đoán của thuyết tương đối”, theo đó niềm tin rằng tất cả những gì gọi là đạo đức về cơ bản đều là tương đối, và niềm tin như thế mở đường cho sự chuyên chế của kẻ mạnh đối với kẻ yếu.
Những nỗ lực của Đức Bênêđictô XVI nhằm phục hồi trong lòng Giáo hội và xã hội quan niệm mở rộng hơn này về lý trí cuối cùng xoay quanh một điểm trung tâm: một điểm mà Kitô giáo chính truyền luôn nhấn mạnh, nhưng đôi khi lại bị lãng quên. Đó là về ý tưởng về Thiên Chúa là Logos - Lý trí.
Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh, việc sở hữu lý trí của chúng ta phản ánh sự kiện là con người, nam và nữ, được tạo dựng, như sách Sáng thế nói, imago Dei, theo hình ảnh của Thiên Chúa, là Đấng được xác định trong câu đầu tiên của Tin Mừng Gioan là Logos - lý trí thần thiêng. Đối với Đức Bênêđictô XVI, Logos không phải là một định đề siêu hình trừu tượng. Chúa Giêsu là Logos mặc lấy xác phàm đã chết cho chúng ta: Thiên Chúa có lý tính đã hiện diện từ thuở ban đầu và trực tiếp đi vào lịch sử nhân loại.
Điều này không chỉ có nghĩa là Thiên Chúa của Kitô giáo không có liên quan gì đến những vị thần khó chịu, hay thay đổi và ích kỷ của thế giới ngoại giáo, những vị thần lợi dụng và ngược đãi người phàm theo ý muốn. Ngược lại, Thiên Chúa tình yêu cũng là Thiên Chúa làm cho lý trí trở thành con người: Logos là Đấng “từ nguyên thủy” thổi trật tự vào vũ trụ và ban cho tinh thần con người khả năng nhận biết phần lớn trật tự này theo ý muốn của mình. Phẩm tính lý trí tự có của chính vị Thiên Chúa này cũng có nghĩa là tình yêu thương của Ngài không bao giờ bị tính đa cảm làm hư hỏng.
Sự nhấn mạnh của Đức Bênêđictô XVI về lý trí không nên được coi là gợi ý rằng ngài là một người theo chủ nghĩa duy lý nào đó. Một mặt, ngài biết rõ rằng con người không phải là Thiên Chúa; do đó, sức mạnh tinh thần của chúng ta không bao giờ có thể vượt quá sức mạnh của Logos.Nhưng Đức Bênêđictô XVI cũng tự an ủi mình bằng đức tin của những người mà ngài gọi là những người đơn sơ: những người có thể không có bằng tiến sĩ thần học, nhưng tin rằng Chúa Giêsu thành Nadarét chính là Đấng mà ngài đã nói, những người đã tin vào những nhân chứng đã làm chứng cho những hành vi và công trình của Chúa Kitô, và là những người đã tìm thấy niềm vui và hy vọng trong sự hiểu biết này. Đức Bênêđictô XVI đã chỉ ra rằng nhiều người trong số họ là những vị thánh bước đi giữa chúng ta, không được công nhận và thường không được biết đến ở đây và bây giờ, nhưng ánh sáng trọn vẹn của họ sẽ hiển hiện rõ ràng trong thế giới mai sau.
Trong các sách Tin mừng của Kitô giáo, từ “ánh sáng” thường đồng nghĩa với sự thật, sự thông biết và tính khả tri của Thiên Chúa. Đó là lời nhắc nhở về một điểm mà Đức Bênêđictô XVI đã đưa ra trong Di chúc thiêng liêng, được xuất bản vào ngày ngài qua đời: rằng, “ngoài mớ giả thuyết rối mù”, chúng ta có thể tin tưởng vào “tính hợp lý của đức tin”.
Tôi tin rằng việc chúng ta thực sự có thể có được niềm tin này sẽ là thông điệp quan trọng và lâu dài nhất từ vị giáo hoàng của lý trí gửi đến một Giáo hội và một thế giới đang rất cần đến thông điệp đó.
Trong tất cả những vị đã ngồi trên Ngai Tòa Phêrô, chắc chắn Đức Bênêđictô XVI là một trong những người khổng lồ về trí thức. Ngay cả trước khi trở thành giáo hoàng vào năm 2005, ngài đã nổi tiếng là một nhà tư tưởng. Cho dù chủ đề là tương lai của châu Âu hay mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế, Joseph Ratzinger chắc chắn đã viết một điều gì đó sâu sắc về các chủ đề này.
Học thuật này không giới hạn trong học viện. Đã lâu rồi tôi không đếm được số người thuộc mọi tầng lớp xã hội mà tôi gặp đã nói với tôi rằng sau khi đọc một hoặc nhiều hơn trong số 86 cuốn sách và 471 bài báo của ngài, họ đã hiểu rõ hơn về Kitô giáo, một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Chúa Giêsu Nadarét. Trong nhiều trường hợp, kết quả cuối cùng là trở lại đạo Công giáo.
Chân lý và những ý tưởng
Đối với Đức Bênêđictô XVI, Kitô giáo không phải là một tập hợp các ý tưởng. Rốt cuộc, Kitô giáo nói về sự thật về cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và cách những sự kiện đó mặc khải tình yêu sâu xa của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Tuy nhiên, các ý tưởng rất quan trọng đối với Ratzinger, vì chính bằng câu chữ mà sự thật này được truyền đạt và giải thích.
Đức Bênêđictô XVI cũng đã chứng kiến trong suốt cuộc đời mình sức mạnh của ý tưởng, dù hoàn cảnh nào đi nữa. Lớn lên dưới chế độ độc tài Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa ở Đức, ngài đã tận mắt chứng kiến mức độ nguy hại có thể đến từ những ý tưởng sai lầm nghiêm trọng. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã chứng kiến cách các ý tưởng của chủ nghĩa Mác đã hợp pháp hóa các chế độ chuyên chế Cộng sản trên khắp Trung và Đông Âu và cuối cùng dẫn đến sự điên rồ quét qua giới học thuật và văn hóa phương Tây vào năm 1968, mà chúng ta vẫn đang phải trả giá.
Những sự kiện này và những sự kiện khác liên quan đến chúng đã khiến Đức Bênêđictô XVI phải suy nghĩ rất lâu và kỹ lưỡng về những sai lầm trong thế giới tư tưởng. Cách giải thích thì nhiều, nhưng tác phẩm của ngài bao giờ cũng quay trở lại cuộc tranh luận về bản chất và mục đích của lý trí.
Trong điều kiện của thời hiện đại, lý trí luôn gắn liền với các thời kỳ Khai sáng khác nhau. Nhiều người ngạc nhiên khi tôi nói với họ rằng Đức Bênêđictô XVI không phải là người chống Khai sáng. Một trong những sai lầm lớn nhất khi phân tích Ratzinger là coi ngài là một kẻ chống Khai sáng. Chỉ cần đọc các bài viết của ngài một giờ hoặc lâu hơn là đủ để xua tan chuyện hoang đường này.
Ngược lại, Đức Bênêđictô XVI đã không ngần ngại công nhận những thành tựu của các nhà tư tưởng khác nhau của phong trào Khai sáng. Các bài viết của ngài phản ánh sự đánh giá sâu sắc về các mức độ khác biệt của các phong trào Khai sáng khác nhau. Trong một số trường hợp, Đức Bênêđictô XVI đã cẩn thận phân biệt các phong trào Khai sáng gắn liền với, ví dụ như Cách mạng Pháp, khác với những phong trào đặc trưng cho kinh nghiệm Khai sáng của người Anh-Mỹ. Ngài tin rằng những phong trào Khai sáng của người Anh-Mỹ không có những xung năng chống Kitô giáo như phong trào Khai sáng gắn liền với Cách mạng Pháp và đánh dấu sự đoạn tuyệt ít cực đoan hơn nhiều với các truyền thống phương Tây cũ hơn. Về vấn đề này, Ratzinger viết rằng tư tưởng của ngài rất gần với tư tưởng của nhà tư tưởng tự do người Pháp thế kỷ 19, Alexis de Tocqueville, người mà ngài gọi là “nhà tư tưởng chính trị vĩ đại”.
Vấn nạn về tính hiện đại
Đức Bênêđíctô XVI nghĩ rằng vấn nạn về tính hiện đại là nó có nguy cơ đóng cửa lý trí đối với sự hiểu biết về những điều vượt quá kinh nghiệm và đo lường được. Nói cách khác, bất chấp tất cả những thành tựu của nó trong khoa học tự nhiên và xã hội, thế giới hiện đại vẫn bị tấn công bởi một quan niệm quá hạn hẹp về lý trí.
Các ngành khoa học hiện đại, như Đức Bênêđictô XVI thường chỉ ra, đã mang hình thức hiện đại của chúng vào thời Trung Cổ, đã giúp nhân loại thực hiện quyền làm chủ vô song đối với thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, tính hợp lý theo kinh nghiệm đã không thể và hiện nay vẫn không thể xác định công nghệ được sử dụng như thế nào mới là tốt hay xấu. Điều này đòi hỏi những hình thức lập luận khác: những hình thức cho phép chúng ta hiểu điều gì là tốt lành, và cách làm thế nào để chúng ta có thể tự do lựa chọn điều tốt lành chứ không bao giờ chọn điều ác.
Theo Đức Bênêđictô XVI, việc mất đi những chân trời vĩ đại của lý trí đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho các lãnh vực tôn giáo và thế tục. Ngài khẳng định, trong thế giới tôn giáo, sự suy giảm của lý trí có xu hướng giản lược tình yêu Kitô giáo thành chủ nghĩa nhân đạo đa cảm đơn thuần.
Trong Giáo hội Công giáo thời hậu Vatican II, điều này dẫn đến việc nhiều nhà thần học và hơn một linh mục, hơn một giám mục và hơn một hồng y đã giảm trừ Chúa Kitô thành một loại gấu bông trị liệu từ trời cao: thứ gấu bông này không bao giờ sửa sai chúng ta và chỉ tán thành chúng ta, bất kể hành động của chúng ta ngu ngốc hay xấu xa như thế nào.
Thách thức của lý trí
Sau một thời gian, không ai có thể coi một vị thần như vậy là quan trọng nữa. Quan điểm tương tự cũng dẫn đến việc đạo đức bị giảm xuống thành việc nói về cảm xúc và kinh nghiệm sống hoặc, thay vào đó, cố gắng xác định tính đạo đức của một hành vi bằng cách đo lường tất cả các hậu quả tốt và xấu của hành động đó – như thể những điều này bằng cách nào đó có thể định lượng được hoặc thậm chí hoàn toàn có thể nhận biết trước được.
Về một vài phương diện nào đó, kết quả của việc giảm sút lý trí thậm chí còn gây ra nhiều tai hại hơn cho toàn xã hội. Ví dụ, nó tạo ra những học giả đề cao tầm quan trọng của tính hợp lý khoa học, nhưng không thể nhận ra rằng các khoa học tự nhiên dựa trên những tiên đề có bản chất phi khoa học - bao gồm cả nguyên lý logic phi mâu thuẫn và sự thật hiển nhiên là sai lầm thì cần phải tránh, nhưng sự thật thì cần phải được biết đến.
Như Đức Bênêđictô XVI muốn nhấn mạnh, các xã hội đa nguyên tự do, vốn thiếu một quan niệm vững chắc về lý trí triết học, thiếu phương tiện để xác định những chân lý phổ quát vượt quá những ý thích thay đổi thất thường kiểu như “xinh xắn dễ thương”. Ngay cả ý tưởng rằng có những quyền tự nhiên phổ quát (một khái niệm có từ thời Tôma Aquinô) mà mọi người có thể nhận biết nhờ lý trí cũng trở nên không thể đứng vững nếu không có cơ sở như vậy trong chính luật tự nhiên. Do đó, các vấn nạn về sự thiện và điều ác bị giản lược vào ý chí của bất cứ ai có nhiều quyền lực hơn, cho dù là do người ấy sẵn sàng sử dụng nắm đấm của mình hay do khả năng của người ấy tập hợp được đa số phiếu bầu của những người dễ sai khiến vào thời điểm bầu cử. Trong những hoàn cảnh như vậy, các thể chế như nhà nước pháp quyền và các giới hạn hiến định đối với quyền lực nhà nước có vẻ như mê hoặc và rốt cuộc là đáng bị vất đi.
Phần lớn tư tưởng của Đức Bênêđíctô XVI - dù là với tư cách giáo hoàng, bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của Đức Gioan Phaolô II, hay nhà thần học - đã được dành để suy tư về những vấn đề này. Chẳng hạn, tư tưởng ấy đã giúp làm nên một trong những thông điệp quan trọng nhất của giáo hoàng trong thế kỷ 20, Veritatis Splendor – Chân Lý Rạng Ngời - của Đức Gioan Phaolô II. Trong số những điều khác, thông điệp này tái khẳng định một cách mạnh mẽ giáo huấn cổ xưa của Giáo hội Công giáo rằng có một số hành vi (giết người, nói dối, trộm cắp, v.v.) mà chính lý trí cho chúng ta biết không bao giờ được phép chọn chúng, bất kể hoàn cảnh hay ý định của bất cứ ai chọn chúng. Cũng có một sự nhấn mạnh nhiều hơn, trong đó nổi tiếng nhất là bài phát biểu năm 2005 của Ratzinger về “sự độc đoán của thuyết tương đối”, theo đó niềm tin rằng tất cả những gì gọi là đạo đức về cơ bản đều là tương đối, và niềm tin như thế mở đường cho sự chuyên chế của kẻ mạnh đối với kẻ yếu.
Những nỗ lực của Đức Bênêđictô XVI nhằm phục hồi trong lòng Giáo hội và xã hội quan niệm mở rộng hơn này về lý trí cuối cùng xoay quanh một điểm trung tâm: một điểm mà Kitô giáo chính truyền luôn nhấn mạnh, nhưng đôi khi lại bị lãng quên. Đó là về ý tưởng về Thiên Chúa là Logos - Lý trí.
Đức Bênêđictô XVI nhấn mạnh, việc sở hữu lý trí của chúng ta phản ánh sự kiện là con người, nam và nữ, được tạo dựng, như sách Sáng thế nói, imago Dei, theo hình ảnh của Thiên Chúa, là Đấng được xác định trong câu đầu tiên của Tin Mừng Gioan là Logos - lý trí thần thiêng. Đối với Đức Bênêđictô XVI, Logos không phải là một định đề siêu hình trừu tượng. Chúa Giêsu là Logos mặc lấy xác phàm đã chết cho chúng ta: Thiên Chúa có lý tính đã hiện diện từ thuở ban đầu và trực tiếp đi vào lịch sử nhân loại.
Điều này không chỉ có nghĩa là Thiên Chúa của Kitô giáo không có liên quan gì đến những vị thần khó chịu, hay thay đổi và ích kỷ của thế giới ngoại giáo, những vị thần lợi dụng và ngược đãi người phàm theo ý muốn. Ngược lại, Thiên Chúa tình yêu cũng là Thiên Chúa làm cho lý trí trở thành con người: Logos là Đấng “từ nguyên thủy” thổi trật tự vào vũ trụ và ban cho tinh thần con người khả năng nhận biết phần lớn trật tự này theo ý muốn của mình. Phẩm tính lý trí tự có của chính vị Thiên Chúa này cũng có nghĩa là tình yêu thương của Ngài không bao giờ bị tính đa cảm làm hư hỏng.
Sự nhấn mạnh của Đức Bênêđictô XVI về lý trí không nên được coi là gợi ý rằng ngài là một người theo chủ nghĩa duy lý nào đó. Một mặt, ngài biết rõ rằng con người không phải là Thiên Chúa; do đó, sức mạnh tinh thần của chúng ta không bao giờ có thể vượt quá sức mạnh của Logos.Nhưng Đức Bênêđictô XVI cũng tự an ủi mình bằng đức tin của những người mà ngài gọi là những người đơn sơ: những người có thể không có bằng tiến sĩ thần học, nhưng tin rằng Chúa Giêsu thành Nadarét chính là Đấng mà ngài đã nói, những người đã tin vào những nhân chứng đã làm chứng cho những hành vi và công trình của Chúa Kitô, và là những người đã tìm thấy niềm vui và hy vọng trong sự hiểu biết này. Đức Bênêđictô XVI đã chỉ ra rằng nhiều người trong số họ là những vị thánh bước đi giữa chúng ta, không được công nhận và thường không được biết đến ở đây và bây giờ, nhưng ánh sáng trọn vẹn của họ sẽ hiển hiện rõ ràng trong thế giới mai sau.
Trong các sách Tin mừng của Kitô giáo, từ “ánh sáng” thường đồng nghĩa với sự thật, sự thông biết và tính khả tri của Thiên Chúa. Đó là lời nhắc nhở về một điểm mà Đức Bênêđictô XVI đã đưa ra trong Di chúc thiêng liêng, được xuất bản vào ngày ngài qua đời: rằng, “ngoài mớ giả thuyết rối mù”, chúng ta có thể tin tưởng vào “tính hợp lý của đức tin”.
Tôi tin rằng việc chúng ta thực sự có thể có được niềm tin này sẽ là thông điệp quan trọng và lâu dài nhất từ vị giáo hoàng của lý trí gửi đến một Giáo hội và một thế giới đang rất cần đến thông điệp đó.
Phêrô Phạm Văn Trung
Chuyển ngữ từ: thedispatch.com (01.01.2023)
Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Chuyển ngữ từ: thedispatch.com (01.01.2023)
Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam